BPO - Ngày 23-3-1975, Bình Phước được giải phóng, góp phần quan trọng cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để có chiến thắng vinh quang ấy, bao nhiêu sức người, sức của đã được dồn cho chiến trường. Bao trai tráng từ mọi miền Bắc, Trung, Nam trên dải đất hình chữ S đã ngã xuống để giữ đất này. Bao người bước ra từ cuộc chiến, vừa rời tay súng đã lại bắt tay dựng xây cuộc sống, dựng xây cuộc đời mới.
Báo Bình Phước trân trọng giới thiệu bài viết về những chia sẻ của đồng chí Nguyễn Hữu Luật, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước về những năm tháng chiến đấu trên mảnh đất Bình Phước anh hùng qua ghi chép của nhà báo Linh Tâm.
Bài 1:
NHỮNG NGÀY ĐẦU Ở CỨ
Tôi sinh ra trong một gia đình cách mạng ở thôn Bình Yên Nội, xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi cha tôi bị địch bắt, bị giam cầm, tra tấn dã man và bị giết hại tại nhà lao tỉnh Quảng Đức (nay là tỉnh Đắk Nông) theo Luật 10/1959 của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, mẹ tôi khóc nhiều đến mù mắt thì cuộc đời tôi cùng em gái là những tháng ngày lang thang nay đây mai đó. Và bước ngoặt cuộc đời đã đến khi tôi may mắn sớm gặp được những người cùng chí hướng với cha của mình.
Đồng chí Nguyễn Hữu Luật (thứ 2 từ phải qua) trong buổi thảo luận tổ tại một kỳ họp Quốc hội
Cuối năm 1964, đầu 1965, tỉnh Phước Long đã có một số nơi được giải phóng, trong đó có Đức Liễu, Bù Na, Đức Bổn. Giữa năm 1965, chú Bảy Thạnh, lúc đó là Chủ tịch xã Đức Bổn đưa tôi vào rừng gặp anh Sáu Sâm, Trưởng Trạm xá K17. Sau vài ngày vào cứ, anh Sáu Sâm sắp xếp cho tôi đi học lớp cứu thương 3 tháng, sau đó về làm việc tại Trạm xá K17, không trở lại xã Đức Bổn nữa. Thời gian làm việc tại Trạm xá K17 có rất nhiều kỷ niệm, nhưng có một kỷ niệm buồn khiến tôi day dứt suốt thời gian dài sau này.
Hồi đó, tôi cùng với chị Ba Điệp (quê Bến Tre) tiếp nhận một thương binh nữ đang mang bầu chừng 7 tháng. Chị bị sức ép của bom Mỹ khi đang làm nhiệm vụ nên thai chết lưu, bị nhiễm trùng rất nặng. Ngày ấy ở trong rừng thiếu thuốc tây trầm trọng. Thương - bệnh binh chủ yếu chữa trị bằng thuốc lá. Chúng tôi vừa học vừa sản xuất, vừa tranh thủ vào rừng hái thuốc lá thay cho thuốc tây. Chị Bảy vừa đau vì thương tích vừa đau đớn vì mất con. Không có thuốc giảm đau hay kháng sinh cho chị, chúng tôi chỉ biết ngày ngày nấu cháo, cho chị uống thuốc lá và động viên chị. Dù đơn vị đã cố gắng hết sức để chăm sóc, động viên, nhưng do vết thương quá nặng, chị Bảy lại nằm lâu ngày trong hoàn cảnh không được vô trùng nên bị loét nặng. Ba tháng sau, chị qua đời. Cái chết của chị Bảy đã ám ảnh tôi một thời gian dài, bởi hằng ngày hằng giờ, phải chứng kiến chị chết dần chết mòn mà đành bất lực.
Chị Bảy mất, không chỉ để lại cho tôi niềm tiếc thương một người đồng chí, một người chị đáng kính mà còn cho tôi bài học về gương chiến đấu, hy sinh của người chiến sĩ giải phóng quân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lúc nằm trên giường bệnh, dù đau đớn về thân xác, vừa mất mát về tinh thần do mất con, nhưng những lúc tỉnh táo giữa những cơn sốt, chị Bảy vẫn nói với tôi và chị Ba Điệp bao điều quý giá và đáng nhớ. Chị động viên tôi còn trẻ, hãy phấn đấu hơn nữa để phục vụ tốt cho thương binh, bởi phục vụ thương binh cũng chính là phục vụ cách mạng. Chị nắm tay tôi dặn, nếu chị không qua được thì đừng buồn khóc mà hãy coi đó là sự hy sinh của chị cho đất nước, bởi bao đồng chí cũng đã ngã xuống vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Hình ảnh, những lời nói của chị Bảy hãy còn vang vọng mãi trong tôi, động viên tôi vượt qua những khó khăn, thử thách trên con đường đấu tranh cách mạng cũng như vượt qua những gian khó trong thời bình.
Năm 1966, tôi cùng chị Ba Điệp được anh Sáu Sâm cử về tỉnh để học lớp y tá một năm, do Ban Y tế tỉnh Phước Long mở. Từ Trạm y tế K17 đến lớp học y tá, tôi cùng đi với anh Phương (hiện gia đình anh Phương đang sống tại huyện Bù Đăng). Trên đường đi, hai anh em ghé thăm nhà anh Phương, cũng để xin thêm ít lương thực. Khi tới nhà, chị gái của Phương đang giã gạo. Chúng tôi xin chị chừng 4kg vừa thóc vừa gạo. Vừa chào từ biệt chị thì máy bay Mỹ ào tới. Chúng tôi chạy nhanh ra bìa rừng tránh.
Hai anh em tôi đi suốt một ngày. Chiều xuống, rừng âm u, buồn, lạnh và rất nhanh tối. Anh Phương vừa đói vừa nhớ nhà nên quay về, bỏ tôi lại một mình. Không nước uống, không lương thực, cũng không biết đường về cứ, trong khi đồng đội đã đi trước một buổi, tôi chơi vơi một mình giữa rừng. Bất chợt, cơn mưa rừng ầm ầm kéo tới, trời tối sập xuống. Tôi kéo áo mưa che kín đầu, tựa vào gốc cây thở dốc, vừa đói vừa rét, vừa sợ thú rừng. Nhưng đáng sợ hơn cả là không biết đi hướng nào để ra khỏi rừng. Đợi khá lâu mưa vẫn không ngớt. Tôi đành mặc kệ, cứ nhắm thẳng phía trước mà bước tới. Tôi cứ đi như thế, đến sẩm tối hôm sau thì may sao gặp được mấy anh giao liên. Các anh đưa tôi về trạm, cho ăn, cho ngủ nhờ và chỉ đường đến lớp học. Đến ngày thứ 3, tôi cũng về được tới trường. Thật hú vía. Nếu không gặp được các anh giao liên thì tôi không chết đói, chết rét giữa rừng cũng bị thú rừng ăn thịt rồi!
Tới trường, chưa kịp nghỉ ngơi, tôi cùng đồng đội đã bắt tay dựng trại và vào học ngay. Suốt thời gian học tại đây, chúng tôi chỉ ăn toàn củ mì, đọt mây, lá bép, măng rừng, môn dóc, vì đồ tiếp tế từ bên ngoài không tới được. Không những thế, chúng tôi còn vừa học vừa phục vụ, chăm sóc thương binh sau trận đánh Phước Long năm 1965. Cuối năm 1966 lớp học kết thúc. Tôi cùng một số anh chị được giữ lại công tác tại Ban Dân y tỉnh Phước Long. Hồi đó chia ra Ban Quân y và Ban Dân y, nhưng đều phục vụ chiến đấu, chăm sóc thương binh, còn bệnh binh rất ít, chủ yếu là những người bị sốt rét. Bởi thế, khi mở chiến dịch thì quân - dân y là một, cùng ra trận cứu chữa cho thương binh. Chúng tôi ở trong rừng nên sốt rét được xem là đặc sản và ai cũng phải trải qua. Tôi cũng không ngoại lệ. Thời gian đang theo học lớp y tá, tôi bị một trận sốt rét ác tính nặng nề, mê man bất tỉnh một ngày một đêm. Hôm sau tỉnh dậy tôi thấy mình đang nằm tại trạm xá. Dứt cơn sốt, tôi lại trở dậy vừa học vừa sản xuất như chưa từng trải qua cơn sốt rét thập tử nhất sinh ấy.