150 ngày đêm chiến đấu với gần 800 trận lớn nhỏ, tiêu diệt hơn 8.000 tên địch, bắt 211 tên, bắn rơi và phá hủy 119 máy bay các loại… Trận chiến Tàu Ô - Xóm Ruộng được ví như bản hùng ca bất tử.
Quán triệt và thực hiện tư tưởng chỉ đạo “chốt cứng, chặn đứng, dưới không lên, trên không xuống” quyết tâm giữ vững trận địa, không để địch vượt qua chốt chặn Tàu Ô, Sư đoàn 7 đã tạo lập thế trận bao vây chia cắt, chặn bộ binh, cơ giới địch lên tăng viện và ngăn không cho địch tháo chạy về Sài Gòn, lập nên nhiều chiến công hiển hách, làm cho Mỹ - ngụy Sài Gòn thiệt hại nặng nề. Đây là một trong những trận chiến phòng ngự, điển hình của sự sáng tạo nghệ thuật quân sự và lòng quả cảm.
Đánh giá đúng tương quan và vận dụng sáng tạo phương pháp tác chiến
Chỉ trong 8 ngày chiến đấu, ta đã đập tan tuyến phòng thủ phía trước trên vòng cung Bắc Sài Gòn dọc biên giới và đánh bại chiến thuật phòng ngự cấp chiến đoàn quân ngụy. Quân giải phóng đã làm chủ chi khu Lộc Ninh, trận then chốt thứ 2 của chiến dịch giành thắng lợi. Trên cả 2 hướng Đường 13 và 22, ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 5 chiến đoàn, trung đoàn cùng số lớn quân bảo an, dân vệ, diệt và bức rút nhiều đồn bốt. Lực lượng địch trên các hướng đều rút chạy, tập trung cố thủ ở thị xã Bình Long đã lên đến 5 lữ đoàn tăng cường (tương đương 2 sư đoàn), mật độ hỏa lực không quân chi viện tăng gấp nhiều lần trước đó. Sau nhiều lần ta tổ chức đột phá tiến công địch ở Bình Long trên nhiều hướng nhưng không thành công. Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc cuộc tiến công kéo dài 32 ngày đêm (từ ngày 13-4 đến 15-5) vào thị xã Bình Long, đồng thời kết thúc đợt đầu của chiến dịch Nguyễn Huệ.
Trên cơ sở diễn biến trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định chuyển phương thức tác chiến từ tiến công sang vây lõng Bình Long, đồng thời chốt chặn từ xa, đánh địch ngoài công sự trên Đường 13 phía nam thị xã Bình Long, không cho địch ở Bình Long tiến công vùng giải phóng của ta. Sự quyết định chuyển phương thức tác chiến từ tiến công sang vây lõng Bình Long đã hình thành khu vực chốt chặn ở Tàu Ô có chính diện 3.500m, chiều sâu 5.000m, trở thành các chốt lớn cắm trên Đường 13, cắt đứt thị xã Bình Long với các lực lượng chủ yếu của địch ở Chơn Thành, Lai Khê.
Lựa chọn khu vực phòng ngự và hình thành thế chốt chặn vững chắc
Khu vực Tàu Ô - Xóm Ruộng nằm trên Đường 13 giữa Lộc Ninh và Chơn Thành. Quân địch ở thị xã Bình Long đang bị vây lõng, có thể bị tiêu diệt, thị xã Bình Long có thể bị quân giải phóng đánh chiếm bất cứ lúc nào. Để giải vây cho lực lượng và giải tỏa Bình Long, buộc địch phải tăng viện bằng đường không và đường bộ. Đối phương lấy Đường 13 là trục cơ động lực lượng do đó buộc địch phải vượt qua khu vực phòng ngự chốt chặn Tàu Ô - Xóm Ruộng của ta đã được chuẩn bị sẵn.
Sư đoàn 7 được giao nhiệm vụ chốt chặn Tàu Ô, kết hợp đánh vận động, sau đó chuyển sang chiến đấu phòng ngự khu vực đã chia cắt địch trên Đường 13. Nhiệm vụ của sư đoàn là tiến công, ngăn chặn địch trên Đường 13, trên trục đường dài gần 20km, đoạn từ nam Bình Long đến bắc Chơn Thành, trọng điểm là khu vực Tàu Ô, tạo điều kiện cho Sư đoàn 5 tiến công giải phóng Lộc Ninh và Sư đoàn 9 giải phóng căn cứ An Lộc (thị xã Bình Long).
Thanh niên Bình Long làm nghĩa vụ dân công hỏa tuyến
Sự lựa chọn khu vực chốt chặn ở Tàu Ô trên Đường 13 nhằm đánh bại các cuộc hành quân mở đường lên Bình Long và từ Bình Long chạy về Sài Gòn để bảo vệ hành lang cho vùng giải phóng là sự lựa chọn vô cùng sáng suốt của Bộ Chỉ huy Miền và Sư đoàn 7. Sự lựa chọn ấy cùng với thế của lực lượng vũ trang địa phương và đơn vị bạn đã tạo nên một thế trận phòng ngự liên hoàn, vững chắc và hiểm hóc thuận lợi cho cả tiến công, phản công và phòng ngự.
150 ngày đêm giữ Đường 13 trở thành cuộc đọ sức lịch sử, giao tranh ác liệt giữa lực lượng bộ đội chủ lực Sư đoàn 7 và lực lượng vũ trang địa phương với quân Mỹ - ngụy nhằm ngăn chặn quân địch chi viện từ Chơn Thành lên và quân địch rút chạy từ Bình Long về. Thực hiện “chốt cứng - chặn đứng”, giữ vững trận địa dài ngày và không để địch cùng xe tăng, xe cơ giới vượt qua chốt chặn Tàu Ô. Sư đoàn 7 lập thế trận bao vây chia cắt, chặn bộ binh, cơ giới địch, buộc địch phải huy động toàn bộ lực lượng của các Sư đoàn 18, 21, 25, Lữ đoàn 15 tăng thiết giáp, 1 lữ đoàn lính dù và sử dụng hơn 35.000 quả đạn pháo 105mm, 155mm, đánh phá trận địa ta. |
Trong 3 ngày đầu (từ 5-4 đến 8-4-1972), địch dùng 2 phi đội máy bay chiến thuật với 120 lần chiếc đánh vào Tàu Ô, 80 lần chiếc yểm trợ cho bộ binh tấn công vào Tàu Ô. Địch còn gọi máy bay chiến lược B52 đánh 2 lần vào 2 giờ gần nhau, đánh thành hình chữ X, lấy Tàu Ô làm giao điểm từ tây sang đông với chiều sâu 800m. Trước sự hủy diệt của lực lượng không quân, bộ binh và các hỏa lực pháo binh của địch, bộ đội ta vẫn tồn tại và kiên cường chống trả quyết liệt mỗi ngày. “Chốt cứng - chặn đứng” ở Tàu Ô - Xóm Ruộng đã trở thành điểm thu hút lực lượng và hỏa lực địch, nhưng chúng đều bất lực và chịu thất bại nặng nề.
Sự sáng tạo về phương pháp tác chiến phòng ngự
Trận tiến công vào thị xã Bình Long ta gặp khó khăn bế tắc về chiến thuật, nhưng ở khu vực Tàu Ô, ta đã sáng tạo được lối đánh mới, sử dụng 1/3 lực lượng, tổ chức phòng ngự chốt chặn vững chắc ở những điểm địa hình hiểm yếu, có giá trị về mặt chiến thuật, nơi địch buộc phải vượt qua; sử dụng 2/3 lực lượng kết hợp vận động tiến công một cách chủ động nên không lâm vào thế bị động phòng giữ tại chỗ mà luôn luôn tìm cách tiến công phản kích địch, đánh quần lộn với địch, đánh vào bên sườn và sau lưng địch bằng mọi lực lượng và phương tiện. Vì vậy, kẻ địch có ưu thế hơn ta vẫn không vượt qua được trận địa chốt chặn và cuối cùng phải từ bỏ các cuộc tiến công giải tỏa Đường 13.
Đồng chí Trần Văn Trà triển khai kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972 ở Bình Long
Điểm nổi trội về sự sáng tạo trong phương pháp tác chiến phòng ngự chốt chặn mới đó là: Sử dụng lực lượng chốt giữ trận địa và lực lượng cơ động tiến công, lấy phản kích, vận động tiến công, tiến công liên tục để tiêu diệt, phá thế địch; chủ động tạo thế, bố trí đội hình; phòng ngự tích cực chứ không phải phòng ngự tiêu cực. Phòng ngự tiêu cực nghĩa là mình đợi địch đến mới đánh, còn phòng ngự tích cực là vừa đánh địch tiến công từ nhiều phía, vừa tiến công từ phía trước, phía sau, bên sườn địch; trong khi tại thời điểm lịch sử đó ta chưa có hệ thống lý luận rõ ràng về tác chiến phòng ngự trong huấn luyện và đào tạo.
Điển hình của nghệ thuật quân sự và lòng quả cảm
Trong suốt 150 ngày đêm chốt chặn Tàu Ô (từ ngày 5-4 đến 28-8-1972), Sư đoàn 7 đã tổ chức đánh gần 800 trận lớn nhỏ với nhiều hình thức khác nhau như: chiến đấu phòng ngự, phục kích, tập kích, vây ép, vận động tiến công… tiêu diệt 8.189 tên; bắt 211 tên địch; bắn rơi và phá hủy 119 máy bay các loại; phá hủy 202 xe các loại, 102 khẩu pháo, 20 hầm đạn và nhiên liệu, thu 390 súng các loại. Địch thiệt hại nặng buộc phải rút chạy khỏi khu vực tác chiến, từ bỏ ý đồ giải tỏa Đường 13.
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Mạnh Cường; lãnh đạo Quân đoàn 4, Binh đoàn 16, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam và huyện Hớn Quản dâng hoa, dâng hương tại Di tích địa điểm chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô
Chiến thắng Tàu Ô - Xóm Ruộng góp phần giữ Đường 13 trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972 được xem như khúc tráng ca bất tử. Ròng rã 5 tháng hứng mưa bom, bão đạn của kẻ thù, nhưng Sư đoàn 7 và quân, dân địa phương đã không bị khuất phục, chiến đấu anh dũng, hoàn thành nhiệm vụ “chốt cứng, chặn đứng, không cho một chiếc xe, một tên địch vượt qua”, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch, tạo ra thế và lực mới của ta trên chiến trường Nam Bộ. Góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán để bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Nửa thế kỷ đã qua đi. Một sự kiện lịch sử hào hùng của lòng quả cảm, không có tư duy, không có thứ lý luận nào bác bỏ được. “Chốt cứng - chặn đứng” ở Tàu Ô - Xóm Ruộng như một chân lý thuộc về lòng quả cảm của quân và dân miền Đông Nam Bộ năm xưa, cũng như cả dân tộc Việt Nam.