Thứ 6, 29/03/2024 18:14:50 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 15:24, 29/07/2018 GMT+7

“Trạng Lợn” cầu mưa

Chủ nhật, 29/07/2018 | 15:24:00 264 lượt xem
BP - Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông. Bằng tài năng của mình, ông khiến nhà Minh nể phục khi đi sứ. Theo sử liệu và tư liệu của thôn Hiền Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư có tên húy là Nguyễn Trư, hiệu Tùng Khê, người thôn Minh Lương, nay là thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Ông là người thông minh sáng dạ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi làm thuê cho nhà giàu ở thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du. Tại đây, ông được tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên quý mến nên đón về nuôi dạy. Không phụ công nuôi dạy của thầy, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Nghiêu Tư có cha làm nghề thịt lợn, lại sinh vào tháng 10, tức tháng Hợi, nên gọi là “cậu Lợn”.

Trong kỳ thi đình, vua đích thân ra đề văn sách, hỏi về lễ nhạc, hình, chính, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đỗ bảng nhãn, Chu Thiêm Uy đỗ thám hoa lang. Với những đóng góp to lớn, ông được gọi bằng cái tên trìu mến: “Trạng Lợn”. Chuyện kể rằng năm 1459, ông được giao đi sứ sang nhà Minh. Khi vào yết kiến, vua Minh muốn thử tài sứ thần nên ngầm sai trang hoàng cung quán lịch sự, rồi cho viết hai chữ “kính thiên” treo ở giữa. Sau đó, vua Minh lại cho bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh bày nghi vệ sang trọng, như chỗ giường ngự của thiên tử để xem trạng có dám ngồi đó không?

Khi sắp đến yến tiệc, họ đưa trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, một viên quan nhà Minh ra hạch rằng: Cớ sao sứ lại vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ nào mà dám nhảy lên ngồi chễm chệ ở đấy? Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư bình thản trả lời: Dám thưa, ngài lấy tội gì mà cho sứ thần là ngạo? Tôi thấy biển đề chữ “kính thiên”, chiết tự ra là “kính nhị nhân” (chữ thiên là trời, tách ra hai chữ nhị và nhân, tức là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế, chúng tôi quyết không chịu. Vả lại nghe cổ nhân có nói: Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà, người phương xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa. Viên quan nhà Minh thấy trạng nói như đã rõ ruột gan từ trước, vội vàng lạy tạ mà rằng: Xin quý ngài xá lỗi! Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem có phải bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà còn biết trước được như thế còn hề chi?

Một lần, khi sang nước ta, sứ nhà Minh muốn đọ trí, so tài bèn xin với vua Lê cho mở hội đánh cờ. Vua Lê lo ngại nên cho mời “Trạng Lợn” đến để hỏi mẹo. Trạng thưa: “Cứ phúc thư nhận lời, định ngày hội đấu. Hạ thần xin dâng người cao cờ. Người ấy họ Nguyễn, hiện giữ chức Thị lang”. Đến ngày hội đấu, trạng xin đem bàn cờ đặt trong sân rồng để vua Lê đọ trí với sứ nhà Minh và ghé tai vua “Cứ thế, cứ thế”, rồi đem lọng dùi thủng một lỗ, sai Thị lang đứng che lọng cho vua. Đến lúc thi đấu, Thị lang xoay lọng, bóng nắng chiếu vào chỗ nào thời vua nhấc quân đi chỗ đấy. Quả nhiên, sứ nhà Minh bị chiếu dồn, không nước gỡ, phải bó gối, chịu thua.

Ngày ấy, ở Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có “Trạng Lợn” sang thăm, vua Minh mời trạng cầu đảo để thử tài. Trạng nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo. Mục đích là kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, trạng bèn lên đàn làm lễ, ông khấn theo cách nói lái: “Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh...”. Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục trạng uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua Minh đã phục lại càng phục hơn.

Lời bàn:

Theo sử sách còn lưu truyền đến ngày nay thì ngay từ nhỏ, Nguyễn Nghiêu Tư đã là người chăm lo đèn sách. Khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay ông vẫn cầm que nhọn vạch xuống đất hoặc viết vào lá chuối, lá khoai để học những chữ khó nhớ. Vì thế, từ nhiều đời nay người dân đất Việt đều xem ông là tấm gương về sự học, vượt khó nghèo để học. Vì sao con trai một người mà dân gian vẫn gọi là “đồ tể” nhưng lại có thể là học trò của một thái học sinh và thậm chí còn trở thành một trạng nguyên? Đó là bởi ngày ấy ngoài việc trò chọn thầy giỏi thì vẫn có chuyện thầy chọn trò giỏi, chứ không phải vì gia đình trò giàu có. Vì thế con em nông dân hoàn toàn có thể theo thầy đèn sách mà trở thành tiến sĩ, trạng nguyên.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, ngoại giao đã có một vai trò và vị trí vô cùng quan trọng. Đó là nền ngoại giao của một dân tộc anh hùng, đầy tính chiến đấu, đồng thời là nền ngoại giao của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ hữu hảo, láng giềng và tỏ rõ tính khoan dung, đại lượng, đức độ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Và từ mấy ngàn năm nay, người Việt Nam tự hào về ông cha mình không những đánh giặc giỏi mà ngoại giao cũng tài ba. Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư là một minh chứng, ông là một trong những nhà ngoại giao kiệt xuất của nước ta ở thế kỷ XV, nhất là việc giao tiếp, ứng đối với sứ giả nhà Minh.

ND

  • Từ khóa
110070

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu