Thứ 7, 20/04/2024 03:07:24 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 07:52, 02/10/2015 GMT+7

“Tiếng khóc” để đời

Thứ 6, 02/10/2015 | 07:52:00 201 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Nam thực lục”, danh nhân văn hóa Nguyễn Gia Thiều quê ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc có nhiều người làm quan, làm tướng cho triều đình Lê - Trịnh.

Theo gia phả thì nguồn gốc dòng họ Nguyễn Gia xuất phát từ làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Vào khoảng giữa thế kỷ XVI, Thọ đương Hầu Nguyễn Hựu đã lấy vợ người xã Liễu Ngạn, sau này con trai là Nguyễn Xiến chuyển gia đình về quê ngoại sinh sống. Để ghi nhớ gốc tích của mình, dòng họ lấy tên đệm là “Gia” trong chữ “Gia Miêu” nhằm nhắc nhở con cháu hậu duệ trong dòng tộc không quên nguồn cội quê hương đất tổ. Dưới thời Lê - Trịnh, dòng họ Nguyễn Gia thuộc hàng “danh gia vọng tộc” ở xứ Kinh Bắc, nối đời có người làm quan, làm tướng, đã đóng góp nhiều công lao to lớn cho nước cho dân.

Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu, một vị quan võ nhưng tinh thông kinh sử, được phong tước Công (Siêu quận công), sau khi mất được thờ làm Tôn thần Ý túc đại vương tại đình làng Liễu Ngạn. Cha Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Ngô - một võ quan cao cấp được phong tước Hầu (Đạt Vũ Hầu). Mẹ là quận chúa Quỳnh Liên (Trịnh Thị Ngọc Tuân), con gái thứ 6 của chúa An Đô vương Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đương cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột và là anh em “con cô con cậu” với chúa Trịnh Sâm. Vợ Nguyễn Gia Thiều là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt. Vốn gia đình bên ngoại thuộc dòng dõi nhà chúa cho nên ngay từ nhỏ Nguyễn Gia Thiều được vào học trong phủ chúa.

Năm 1759, khi mới 18 tuổi ông giữ chức Hiệu úy quản trung mã tả đội, sau thăng làm Chỉ huy thiêm sự, Chỉ huy đồng trị. Đến năm 30 tuổi ông được thăng lên chức Tổng binh đồng trị.Ông được chúa Trịnh rất tin dùng và phong tước Hầu (Ôn Như Hầu). Năm Nhâm Dần (1782), ông được xung chức Lưu thư xứ Hưng Hóa. Năm 1786, khi quân Tây Sơn kéo ra Đàng ngoài chấm dứt triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên vùng miền núi xứ Hưng Hóa. Năm 1789, vua Quang Trung đánh thắng quân Thanh lập ra nhà Tây Sơn, Nguyễn Gia Thiều được mời ra làm quan nhưng ông cáo bệnh từ chối và về quê sinh sống cho tới khi qua đời ngày mồng 9-5 năm Mậu Ngọ, thọ 58 tuổi.

Nguyễn Gia Thiều là người đa tài, hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học và triết học. Ông còn tinh thông nhiều bộ môn khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Về âm nhạc, sở trường của Nguyễn Gia Thiều là các bài ca, bài tán, ông là tác giả của các bản “Sơn trung âm”, “Sở từ điệu”. Về hội họa, ông có bức tranh “Tống sơn đồ” dâng vua xem và được nhà vua khen ngợi rồi ban thưởng. Về kiến trúc và trang trí, ông là người được chúa Trịnh tin tưởng giao cho trông coi việc trang hoàng phủ chúa và chỉ đạo công việc xây dựng tháp chùa Tiên Tích. Rất tiếc do thời gian, chiến tranh loạn lạc các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều không còn lưu lại đến ngày nay.

Ông có tài về văn học, ngoài tập thơ chữ Hán “Ôn Như thi tập” (hiện đã thất truyền) còn nhiều tác phẩm thơ chữ Nôm khác như “Tây Hồ thi tập” và “Tứ Trai thi tập”. Đặc biệt, trong những sáng tác của ông, tác phẩm nổi tiếng và kiệt xuất nhất là “Cung oán ngâm khúc” gồm 356 câu thơ Nôm làm theo thể “song thất lục bát”.

Lời bàn:

Ngày nay, đã là người dân đất Việt thì chẳng mấy ai lại không biết về tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều. Bởi tác phẩm này là tiếng thét oán hờn của những người cung nữ sống trong hoàng cung. Đồng thời, nó là lời tố cáo đanh thép và là sự phản kháng mãnh liệt chế độ phong kiến đương thời vì đã đối xử tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm cao quý của người phụ nữ. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm của chế độ phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo. Họ bị vua chúa biến thành thứ đồ chơi thỏa mãn thú tính hoang dâm của mình rồi ném đi không thương tiếc vào quên lãng. “Cung oán ngâm khúc” còn là tiếng nói gay gắt, quyết liệt đầy phẫn nộ nhưng cũng đầy lo âu sầu cảm, nhà thơ viết về nỗi oán hờn của người cung nữ trong cung cấm nhưng cũng chính là viết về cuộc đời chung lúc bấy giờ.

Với hậu thế ngày nay, tuy “Cung oán ngâm khúc” không dựng lên bức tranh cụ thể về đời sống hiện tại khi đó, nhưng với tài năng của mình, Nguyễn Gia Thiều đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc về bản chất của xã hội đương thời. Bằng tài năng và tinh thần nhân đạo của mình, Nguyễn Gia Thiều đã dồn hết tâm huyết và văn tài viết lên một tác phẩm bất hủ để lại cho hậu thế. Với kiệt tác này Nguyễn Gia Thiều trở thành nhà thơ nổi tiếng trên diễn đàn văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII. Và cũng chính kiệt tác này đã làm cho tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi cùng sông núi nước Việt.

 N.D

  • Từ khóa
109714

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu