Thứ 7, 20/04/2024 00:45:15 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 13:45, 26/03/2017 GMT+7

Lưỡng quốc thượng thư

Chủ nhật, 26/03/2017 | 13:45:00 744 lượt xem
BP - Theo sách “Hoàng Lê nhất thống chí”, Phạm Đình Trọng là người làng Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, trấn Hải Dương, nay là huyện An Dương, thuộc thành phố Hải Phòng. Ông sinh ngày 22-2-1714, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10. Ông có tướng mạo khôi ngô, tư chất thông minh, lại được học sớm, từ 7 tuổi gia đình đã cho theo các thầy nổi tiếng trong vùng học võ, học văn nên 20 tuổi, ông thi đỗ Hương cống. Khoa thi năm 1739, ông thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ. Một năm sau, ông được triều đình bổ nhiệm làm Hiệu thảo Viện Hàn lâm.

Thời đi học, ông luôn được các thầy đánh giá là lanh lợi, tài năng hơn người và luôn được đồng môn nể trọng. Vào giai đoạn đó, lấy danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại chúa Trịnh nổi lên và cuộc khởi nghĩa có quy mô, tạo được thanh thế nhất là cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ở Hải Dương. Quan quân triều đình đi đánh dẹp nhiều lần, nhưng đều thất bại. Biết Phạm Đình Trọng là người mưu lược, văn võ song toàn, triều đình phong ông giữ chức Hiệp thống kiêm Phòng ngự sử và phái đi đánh dẹp quân khởi nghĩa. Với tài năng quân sự bẩm sinh, không bao lâu, Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Cừ. Ông được phong làm Hữu thị lang bộ Công.

Nguyễn Tuyển mất, Nguyễn Hữu Cầu là con rể Nguyễn Tuyển đã mang quân về mạn Đông Bắc, lấy vùng Vân Đồn, Cát Bà, Đồ Sơn... làm căn cứ, xưng là Đông Đạo tống quốc bảo dân Đại tướng quân. Nguyễn Hữu Cầu là người nhanh nhẹn, quyền biến, có sức khỏe hơn người, dân gian vẫn ví ông như Hạng Võ của nước Nam. Có tài thao lược, Nguyễn Hữu Cầu đánh đâu thắng đó, uy thế lẫy lừng. Năm 1743, ông đánh bại quân triều đình, giết chết thủy đạo đốc binh Trịnh Bảng ở sông Cổ Trai. Tiếp đó, Nguyễn Hữu Cầu đánh lên Kinh Bắc. Trấn thủ và Đốc binh Kinh Bắc bấn loạn, bỏ cả ấn tín thoát thân. Nghĩa quân tiếp tục đánh tới Bắc Giang. Quân triều đình do Trương Khuông và Đinh Văn Giai phái tới thua to, chạy tán loạn... Trước thế lực của Nguyễn Hữu Cầu, chúa Trịnh lo sợ liền phong Phạm Đình Trọng làm Bình khẩu Đại tướng quân, thống lĩnh quân triều đình và sai đi dẹp Nguyễn Hữu Cầu. Phạm Đình Trọng thật xứng là đối thủ của Nguyễn Hữu Cầu! 6 năm chinh chiến cam go, cuối cùng cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu bị Phạm Đình Trọng dẹp tan. Sau chiến thắng này, Phạm Đình Trọng, lúc ấy mới 36 tuổi, được thăng Thượng thư bộ Binh, hàm Thái bảo, tước Hải quận công, hưởng hoa lợi 12 xã và 150 mẫu lộc điền.

Những năm bọn phỉ quấy nhiễu vùng Đông Bắc, trấn thủ xứ Quảng Yên của ta và quan quân Quảng Đông của nhà Thanh cũng bó tay, dẹp không nổi. Trước tình cảnh ấy, triều đình lại phái Phạm Đình Trọng đảm nhận tuần tiễu khu vực này. Không lâu sau, dưới sự chỉ huy của ông, đám phỉ bị xóa sổ, những tên cầm đầu bị bắt. Không chỉ dân Đông Bắc nước Nam được bình yên mà dân Quảng Đông của nhà Thanh cũng không còn bị quấy nhiễu. Vua nhà Thanh mừng rỡ, liền sai người mang lụa, vàng bạc và mũ áo Thượng thư sang nước Nam ban cho Phạm Đình Trọng. Bởi vậy đời sau gọi ông là Lưỡng quốc thượng thư.

Năm 1751, Phạm Đình Trọng được phái đi trấn thủ Nghệ An, kiêm Đốc binh châu Bố Chính. Ông vừa trấn áp bọn đạo tặc trộm cướp và tàn dư của Nguyễn Hữu Cầu vừa thi hành chính sách đức trị, coi dân là gốc mọi sự, thương quý dân như con nên vùng Nghệ An, Bố Chính dân an cư, lạc nghiệp, đời sống ấm no, nhà nhà vui vẻ hòa thuận. Phạm Đình Trọng  được nhân dân trong vùng kính trọng, quý nể. Nhưng điều ấy đẩy ông vào thảm họa. Do ghen ghét tài năng, đức độ của Phạm Đình Trọng nên Đỗ Thế Giai đem lời gièm pha với chúa rằng Phạm Đình Trọng gây thanh thế, uy đức lấn cả triều đình và đó là gốc của mầm họa. Triều đình mù quáng, bất tài và lo mất quyền lực nên đã bất nhẫn, cuống cuồng “ban” cho ông chén rượu độc.

Hay tin này, nhiều tướng dưới quyền khuyên ông chạy vào Nam với chúa Nguyễn, nhưng Phạm Đình Trọng không nghe, ông cả cười mà rằng, người trung thực không thờ hai chúa. Sau đó, ông vào thư phòng, quay mặt về phía bắc, vái vọng vua Lê rồi bình thản đưa chén rượu độc lên miệng uống cạn. Phạm Đình Trọng mất vào đêm trừ tịch năm 1754 lúc mới 40 tuổi.

Lời bàn:

Cái chết của Phạm Đình Trọng trong giai thoại này là bi kịch chung của những người tài dưới thời loạn lạc trong chế độ phong kiến. Bởi từ nhiều thế kỷ và nhiều triều đại phong kiến trước đó, vua chúa đều hành xử theo kiểu khi hết thú rừng thì cung tên cũng biến thành củi đốt. Vẫn biết rằng sau khi ông mất, triều đình nhận ra sai lầm rồi hối lỗi, vua Lê ban gấm vóc, tiền bạc và cho thuyền đưa linh cữu ông về quê an táng. Còn chúa Trịnh thì gửi câu đối: “Cái thế anh hùng kim cổ hiếm; Tài đức bền lâu cùng đất trời”. Dẫu vậy, cái tội đố kỵ, hợm mình, không nhìn trước ngó sau vội vã xử oan người tài là một vết nhơ của triều đình Lê Trịnh và đã được lịch sử ghi lại nên khó mà gột rửa.

Mặc dù Phạm Đình Trọng hưởng dương không nhiều, thời gian làm quan ngắn ngủi, nhưng ông đã được các bậc danh nho và sử gia đương thời tôn vinh là người có tài kiêm văn võ, làm bậc nguyên thần của nước là danh tướng trong làng nho, sự nghiệp kỳ vĩ... Và trong công cuộc bảo vệ biên giới, bảo vệ vùng biển, vùng trời Tổ quốc ngày nay, những chiến tích cùng bài học quý giá của danh nhân Phạm Đình Trọng cần được hậu thế nghiên cứu, học hỏi để vận dụng một cách có hiệu quả.

N.D

  • Từ khóa
109898

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu