Thứ 4, 24/04/2024 13:45:06 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 07:26, 21/09/2014 GMT+7

Gương hiếu thời xưa

Chủ nhật, 21/09/2014 | 07:26:00 861 lượt xem

BP - Trong sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” có ghi lại một số tấm gương hiếu thảo với đấng sinh thành của người xưa như sau: Thời ấy, có người tên Khang ở huyện Nga Sơn, trấn Thanh Hóa nguyên là họ Nguyễn. Năm lên 7, cô ruột lấy Mai Sĩ Khải, không có con, nuôi Khang làm con, đổi theo họ Mai. Khang là người kính cẩn liêm khiết, có hiếu thờ cha mẹ, được khen ngợi rồi được cử làm lý trưởng trong 16 năm, việc làng không có tham lợi. Một mình chịu 4 đại tang, đều làm nhà ở mộ, vết chân hổ đi khắp cạnh mộ mà không phạm tới. Đến sáng, người mất lợn theo dấu vết tìm được mang về và nói với mọi người biết về việc ấy.

Lại có người ở Nghệ An đi buôn, từ Bắc Thành trở về gặp đường đi bị tắc nghẽn nên đêm vào ngủ trọ nhà Khang, ngầm chôn bạc ở sau vườn. Sáng sớm hôm sau, vội dậy đi quên số bạc này. Vài ngày sau, con Khang trồng cây ở sau vườn bắt được 60 lạng bạc đem bảo Khang. Khang sai con cất đi. Hôm khác, người buôn đến, Khang hỏi, người buôn đem sự thực trình bày, Khang thấy đúng bèn trả lại. Dân hàng tổng đều mến trọng là liêm, bảo cử làm Tổng trưởng. Hơn 20 năm, việc công Khang có phần thạo giỏi, không có lỗi gì. Sau vì già xin từ dịch. Khang đem việc hạnh nghĩa dạy bảo con cháu, lấy hòa thuận làm khuôn phép cho làng. Năm 1827, nhà vua hậu thưởng bạc và cho nêu khen ở cửa có 4 chữ: “Hạnh nghĩa khả phúng”, nghĩa là: Hạnh nghĩa đáng làm gương. Con trai Khang là Đồng quen theo khuôn phép nên cũng có tiếng tốt như bố.

Nguyễn Văn Tựu là người huyện Đồng Xuân, trấn Phú Yên, rất có hiếu hạnh, dẫu có vợ con vẫn ở với cha mẹ, sớm thăm tối viếng, thường đón trước được ý của cha mẹ, phụng dưỡng hết lòng. Khi cha mẹ mất, Tựa làm nhà ở cạnh mộ, nằm rơm gối đất, sớm tối không rời. Cảnh nhà neo đơn nghèo túng mà sống nuôi, chết chôn cất chu đáo, làng đều khen là hiếu. Năm Minh Mạng thứ 4 - 1823, nhà vua hậu thưởng cho tiền bạc và xuống chiếu cho nêu tấm biển ở cửa có 4 chữ: “Hiếu thuận khả phúng”, nghĩa là: Hiếu thuận đáng làm gương.

Đến năm Minh Mạng thứ 8 - 1827, Tựa tới kinh chầu lạy và được triệu vào ra mắt, lại được nhà vua thưởng cho bạc lạng, áo quần rồi cho về. Con là Thiệu cũng có hiếu như bố, khi bố ốm đau, sớm tối không rời bên cạnh, bố không ăn, Thiệu cũng không ăn, lòng hiếu thảo rất là chu chuẩn. Năm Minh Mạng thứ 18, nhà vua thưởng cho 20 lạng bạc, 2 tấm lụa và bức biển ngạch có 4 chữ: “Khắc thiệu hiếu phong”, nghĩa là: Nối được nết hiếu thảo của cha mẹ. Năm Minh Mạng thứ 21, Thiệu để tang bố thương xót hết lòng, làng xóm cũng phải cảm động. Làm nhà ở mộ 3 năm. Năm Thiệu Trị thứ 3, nhà vua thưởng 10 lạng bạc, 2 tấm lụa.

 Nguyễn Cư Sỹ, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, cháu của công thần khi mới dựng nước là Tân Minh hầu Nguyễn Cư Trinh. Năm Minh Mạng thứ 3 - 1822, Cư Sỹ mới 14 tuổi, bố là Cư Tuấn làm Cai bạ doanh Quảng Trị vì tham nên bị tội đồ. Cư Sỹ đã xin thay hình phạt cho cha, vua y cho rồi bắt xích lại cho phát phối đi làm việc. Cư Sỹ vui vẻ chịu, không ngần ngại một chút nào. Vua nghe tin khen và nói rằng “Cư Trinh được người cháu khá như thế!” bèn tha cho về. Kịp khi về nhà, cha mẹ ốm đau, sớm tối thuốc thang hầu hạ chăm sóc, không chút trễ nải. Năm Minh Mạng thứ 8, nhà vua xuống chiếu nêu biểu ngạch ở cửa là: “Hiếu hạnh khả phúng”, nghĩa là: Hiếu hạnh đáng làm gương. Sau cho vào nhà giám đọc sách, rồi trải qua làm quan đến chức Bố chính ở Gia Định.

Lại Phan Đình Nghị người huyện Thạch Hà, trấn Hà Tĩnh, cũng sớm mồ côi cha, thờ mẹ có hiếu, quân cướp đến cướp nhà và người mẹ bị trảo, Nghị kêu cầu xin đem thân thay. Bọn cướp tha cho người mẹ và bắt Nghị đi. Sau đó, làng xóm đuổi bắt nên bọn cướp bèn bỏ Nghị lại, người làng khen là hiếu. Năm Minh Mạng thứ 18 - 1837, cả hai người đều được nhà vua thưởng bạc và nêu biển ở cửa để khen.

Lời bàn:

Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/Một lòng thờ mẹ kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Cho đến nay, không ai biết được những lời này có tự bao giờ, nhưng có một điều chắc chắn rằng đã là người Việt Nam thì chẳng ai lại không biết hay không được nghe dù chỉ một lần. Bởi lẽ, ngay từ khi còn nằm trong nôi chúng ta đã được nghe mẹ, cha hoặc ông bà hát ru. Lớn lên, khi ngồi trên ghế nhà trường lại được thầy cô giảng dạy cho nghe về ý nghĩa của lời vàng ý ngọc trên. Và nhà triết học vĩ đại của mọi thời đại là Khổng Tử cũng đã dạy rằng, một trong những tội lớn nhất của con người là bất hiếu.

Vâng, điều ấy quả là không sai. Vì ngay chính người sinh ra mà ai đó chẳng coi ra gì thì có còn xứng làm người nữa hay không? Và ngày nay, nhắc lại những giai thoại trên có không ít người cảm thấy đau lòng. Vì hậu thế có không ít gia đình khi tài sản của cha mẹ là nhà cửa, ruộng vườn đã được chia cho các con thì cũng là lúc các con phân chia trách nhiệm nuôi cha, mẹ từng ngày, từng tháng. Lại có người sau khi được thiên hạ giúp đỡ mà có nơi ăn chốn ở nhưng ngay sau đó họ lại đuổi cha mẹ ra khỏi căn nhà của mình. Thật đáng buồn thay và không biết cho đến bao giờ chữ hiếu thời nay mới bằng thời xưa!?       

N.V

 

  • Từ khóa
109582

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu