Thứ 6, 19/04/2024 20:15:24 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Xã hội 14:44, 07/10/2014 GMT+7

Không để 20 năm sau sẽ có khoảng 4 triệu nam giới "ế vợ"

Thứ 3, 07/10/2014 | 14:44:00 291 lượt xem
BPO - Việt Nam sẽ phải đối mặt với viễn cảnh trong 15-20 năm nữa có khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam giới “dư thừa”, không tìm được vợ để kết hôn. Đây là hậu quả của việc lựa chọn giới tính khi sinh và cũng là hệ quả của một xã hội “trọng nam, khinh nữ”.

Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) của Việt Nam đang diễn ra trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực đã rơi vào tình trạng này và đang phải đối mặt với hệ lụy của nó. Hàng năm, các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc phải “nhập khẩu” cô dâu mà vẫn không đáp ứng được số nam giới đến tuổi trưởng thành có nhu cầu kết hôn. Phần lớn các phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là cô dâu của các nước kể trên. Điều đó cho thấy, nếu tình trạng MCBGTKS không được khống chế, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những hậu quả nặng nề hơn nhiều so với các nước có tình trạng tương tự.

Sự gia tăng bất thường của tỉ số giới tính khi sinh (TSGTKS) được thấy rõ ở Việt Nam trong những năm gần đây. Nếu như năm 2000, TSGTKS vẫn còn ở mức 106,2 bé trai so với 100 bé gái được sinh ra thì đến năm 2008 tỉ số này đã tăng lên 112,1. Năm 2009, theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở, TSGTKS có giảm xuống 110,6 rồi lại tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo. Năm 2013, TSGTKS tiếp tục tăng lên 113,8 và năm 2014 tỉ số này chưa có dấu hiệu giảm xuống với những diễn biến phức tạp.

 

Tỷ lệ bé trai nhiều hơn bé gái đang diễn ra tại nhiều tỉnh, thành, ảnh hưởng tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai

Điều đáng nói là điểm khác biệt chỉ có ở Việt Nam mới có đó là TSGTKS cao ngay ở lần sinh đầu tiên. Ở các quốc gia có TSGTKS cao thì tỷ lệ trẻ em trai được sinh ra ở lần sinh thứ hai cao hơn lần thứ nhất và lần ba cao hơn lần thứ hai. Còn ở Việt Nam, TSGTKS của lần sinh con đầu tiên là 115,2 bé trai/100 bé gái; đến lần sinh thứ hai, tỉ số thấp hơn một chút là ở mức 110, nhưng đến lần sinh thứ ba và sau đó lên rất cao đến mức 121.

Có thể nói, hiện tượng nam hóa một cách bất thường về mặt nhân khẩu học đã gây tác động nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, đó không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là kết quả của tình trạng loại bỏ bé gái có chủ ý.

Lựa chọn giới tính thiên về con trai là một biểu hiện của sự bất bình đẳng phổ biến đối với phụ nữ về mặt xã hội, kinh tế, chính trị. Các chế độ mang tính gia trưởng củng cố thêm tâm lý ưa chuộng con trai và môi trường bạo lực, phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội. Mức sinh giảm và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ cho phép cha mẹ biết trước giới tính thai nhi là những yếu tố trầm trọng thêm vấn đề.

Hậu quả nhãn tiền của vấn đề này đã rõ, khi mà đã có một số người phụ nữ phải phá thai nhiều lần vì kết quả siêu âm cho biết đó là thai nhi gái. Dù không muốn nhưng một số cũng không thể để đẻ vì cả vợ chồng đều hoặc là công chức, trong khi gia đình nhà chồng thúc giục. Phần vì ảnh hưởng của những lần phá thai, phần vì bị áp lực, ám ảnh tội lỗi, nhiều phụ nữ sinh ra stress, trầm cảm.

Cũng chính bởi những áp lực này, nhiều phụ nữ đã phải tính làm sao để có được con trai ngay từ lần đầu tiên sinh nở cho “chắc ăn”.

Đây là một thực tế khi rất nhiều bác sỹ sản khoa cho biết, số ca nạo phá thai do thai nhi đó có giới tính nữ, kể cả đối với những người mới có thai lần đầu vẫn có. Còn tình trạng nạo phá thai ở đối tượng đã có một con gái là “chuyện thường ngày”. Có người vừa siêu âm xong là quyết định phá bỏ ngay khi biết thai nhi mang giới tính nữ. Nhiều người chấp nhận bị kỷ luật, đuổi việc… để đẻ cho kỳ được con trai...

Vì sợ tai tiếng, họ âm thầm xử lý thai nhi ở những cơ sở y tế tư nhân không đủ điều kiện. Nhiều hậu quả đau lòng đã xảy ra tại các phòng khám “chui” này. Cùng với hành động phá bỏ thai là hàng ngàn, hàng vạn những hệ lụy đau đớn khác mà chúng ta không lường hết được.

Theo đánh giá của các chuyên gia, về phía gia đình, không chỉ bản thân người phụ nữ phải chịu những ảnh hưởng nặng nề về sức khỏe và tinh thần, mà hạnh phúc mỗi gia đình cũng không trọn vẹn khi mang nặng áp lực về điều đó. Về sau này cũng vậy, các nam thanh niên sẽ khó có cơ hội lấy được người vợ như mong muốn và họ sẽ rơi vào cảnh sống độc thân, tâm lý căng thẳng trong quá trình tìm bạn đời…

Dưới góc độ xã hội, MCBTSGTKS sẽ gây ra những khó khăn thách thức mới đối với công tác dân số như phải tốn thêm nhiều nhân lực, vật lực cho công tác nghiên cứu, điều tra về tình hình này, đồng thời tăng kinh phí để giải quyết vấn nạn đó.

Nhóm nam giới thì gặp khó khăn trong việc tìm vợ hoặc không thể lấy được vợ, phải duy trì cuộc sống độc thân có thể gây ra những bất ổn về trật tự an toàn ở cộng đồng, làm gia tăng tệ nạn mại dâm, buôn bán trẻ em gái, phụ nữ và các loại tội phạm xã hội khác do nhu cầu tình dục của họ không được đáp ứng…

Thực tế đã cho thấy tình trạng MCBTSGTKS ở nước ta đã đến hồi báo động. Những hệ lụy, hậu quả đã, đang và sẽ tới với chúng ta là vô cùng lớn, nghiêm trọng. 

 

Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, chỉ cần siêu âm thai, cha mẹđã có thể biết trước giới tính thai nhi.
 (Ảnh chỉ mang tính minh họa: Đỗ Thoa) 

Trong một Hội thảo về dân số vừa được tổ chức mới đây tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cũng đã phải thốt lên rằng, các biện pháp để giảm sự gia tăng tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh triển khai thời gian như cấm siêu âm chẩn đoán giới tính, cấm phá thai lựa chọn giới tính... đã không mang lại hiệu quả và tính khả thi không cao. Bởi một trong những nguyên nhân sâu xa và gần như mang tính quyết định dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, đó là sự tồn tại dai dẳng của định kiến giới hay tư tưởng trọng nam khinh nữ, cũng như phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái ở một bộ phận nhân dân.

Do đó, để giảm được tình trạng mất cân bằng trên thì cần có các giải pháp đồng bộ, đặc biệt cần đẩy mạnh tuyên truyền, vận động để thay đổi nhận thức của người dân về vai trò, vị trí của phụ nữ và trẻ em gái. Tuy nhiên, nếu chỉ có phụ nữ thì không thể giải quyết được vấn đề, mà cần có sự hợp tác giữa nam giới trên tinh thần quan hệ đối tác. Nam giới cần phải được khuyến khích để trở thành những tác nhân thay đổi về nhận thức giới.

Nếu chúng ta không giải quyết quyết liệt vấn đề này, khoảng 15 - 20 năm nữa Việt Nam sẽ phải đối mặt với thực tế dư thừa khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam giới không có cơ hội kết hôn.

Từ năm 2009, Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) đã triển khai thí điểm Đề án giảm thiểu MCBTSGTKS tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm về tình trạng này. Không ít hội thảo, hội nghị cũng đã được mở ra để bàn kế sách “hãm” lại sự tăng lên của số trẻ nam.

Nhiều giải pháp khác như truyền thông chuyển đổi hành vi; chuyển đổi cơ cấu kinh tế để đảm bảo an sinh xã hội… cũng được thực hiện để hỗ trợ cho việc lập lại trật tự về giới tính. Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách, việc làm này vẫn chưa thấy rõ ràng bởi vấn đề gốc rễ ở đây là giải quyết vấn đề tư tưởng của người dân, đặc biệt là thay đổi suy nghĩ truyền thống về giới trong họ. Từ đó thay đổi hành vi, không tham gia vào quá trình lựa chọn trước sinh. Mong muốn là như vậy, nhưng từ chỗ nhận thức được đến chuyển đổi hành vi, thay đổi một phong tục, tập quán đã có từ ngàn đời nay là không thể dễ dàng, một sớm một chiều làm được.

Có một điều phải khẳng định rằng, mặc dù có nhiều khó khăn để giảm ngay được tình trạng MBCGTKS nhưng không phải vì khó thì không tiếp tục làm, không từng bước thay đổi. Quan trọng là bản thân mỗi cá nhân phải nhận thức rõ để thay đổi nhận thức, quan niệm của mình trước để sự thay đổi của cả xã hội.

Nguồn ĐCSVN

  • Từ khóa
49980

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu