Thứ 5, 18/04/2024 14:46:23 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 10:17, 18/09/2014 GMT+7

Bản lĩnh Phạm Phú Thứ

Thứ 5, 18/09/2014 | 10:17:00 229 lượt xem

Năm 1866, quan soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế) đưa thư đòi triều đình Huế phải giao cho Pháp được quyền “Quản luôn ba tỉnh thuộc miền Tây Nam bộ là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên”, vì ở đây “bọn trộm cướp thường qua lại”. Nhà vua liền sai Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến “xin giữ giao ước cũ lâu dài”. Năm 1867, Phan Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm người điều đình với Pháp. Song thực dân Pháp không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông, còn triều đình Huế thì không hài lòng vì việc thương lượng cứ đổ vỡ. Cuối cùng, ông bị Ngự sử đàn hặc và gọi về kinh “hậu cứu”. Năm 1873, vì phạm lỗi, Phạm Phú Thứ lại bị giáng làm Thị lang, rồi khai phục chức Tham tri.

Năm 1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở Bắc kỳ. Nhà vua cho ông “là người am hiểu và có tài cán lão luyện”, nên tháng 10 năm đó, triều đình đổi ông làm Thự Tổng đốc Hải Yên (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương và Quảng Yên), kiêm sung Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi, gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang thuộc Hải Dương, ông lập tức xin trích năm vạn phương gạo ở kho Hưng Yên để phát chẩn cho dân bị đói. Đồng thời, lại phái thuộc hạ đem những người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách... khẩn hoang, cày cấy kiếm sống.

Năm 1876, triều đình chuẩn cho Phạm Phú Thứ được thực thụ chức Tổng đốc Hải An. Để vỗ yên lòng dân, ông xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc huyện An Dương, Hải Phòng) và Đồ Sơn (thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh); đồng thời phái Thương biện là Lương Văn Tiến (anh em họ ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo việc làm cho họ để họ thôi “càn rỡ, ngang ngược”. Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phủ Bình Giang, mở Nha Thương Chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào năm 1878...

Năm 1878, ông được thăng làm Thự hiệp biện Đại học sĩ, song vẫn lĩnh chức vụ cũ. Cũng trong năm này, Khâm phái ngự sử là Dương Hoàn tâu lên rằng: “Lương Văn Tiến (lúc này đang làm Giám đốc việc tuần phòng ngoài biển) cậy thế chở gạo ra ngoại quốc”... Vì vậy, Phạm Phú Thứ phải về Huế để chữa bệnh và đợi án. Năm 1880, khi bản án dâng lên, ông bị giáng làm Quang lộc tự khanh, lĩnh chức Tham tri bộ Binh. Lúc này, nhân có bệnh nên ông xin về quê.

Tháng 1-1881, nước Tây Ban Nha dâng tặng khánh vàng hạng nhất, đồng thời gửi tặng khánh vàng cho các quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Diệu và ông. Năm Tự Đức thứ 35 - 1882, Phạm Phú Thứ mất tại quê nhà “giữa những ngày u ám nhất của vận mệnh chế độ phong kiến nhà Nguyễn”, thọ 61 tuổi.

Nghe tỉnh thần tâu lên sự việc, vua Tự Đức thương tiếc ban biểu dụ và trong đó có đoạn viết:

Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi Đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, Thứ tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự hiệp biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần.

Lời bàn:

Theo sử cũ còn lưu truyền đến ngày nay thì tuy đã bị trừng phạt một lần vì tội dám nói thẳng, phê bình nhà vua, nhưng 23 năm sau, lúc đã luống tuổi và ở địa vị cao, Phạm Phú Thứ lại một lần nữa dám phê bình vua trước các quần thần rằng: “phóng túng, tuần du vô độ”. Nhưng vị “con trời” lần này không ra tay trừng phạt quan đại thần “tài năng và đức độ” hơn người này mà chỉ biết chữa thẹn một cách trịch thượng: “Đó là lỗi đã thành tật của ta, không thể khiển trách được”. Có lẽ vậy mà Tự Đức đã nhận xét ông là “cố chấp, nhưng ngựa có cắn, có đá, mới đi nghìn dặm”. Chỉ riêng với việc này cũng đã cho người đời sau thấy rõ ông là người có bản lĩnh tôn trọng và làm theo lẽ phải, không chịu khuất phục trước cường quyền.

Với Phạm Phú Thứ, ông không phải chỉ là người trí thức có bản lĩnh, có lòng cương trực và dũng cảm mà ở ông còn là một chính khách có tầm nhìn chiến lược trước thời cuộc, kiên trì gắn chặt nhiệm vụ cứu dân tộc khỏi nạn ngoại xâm với yêu cầu canh tân đất nước. Và chính ông, một trí thức nho học đã tiên phong trong việc học tập, phổ biến khoa học - kỹ thuật ở nước ta thế kỷ XIX. Tiếc rằng, gương sáng thời xưa là vậy nhưng hậu thế không phải ai cũng học và làm theo được. Chính vì thế mà ở đâu đó vẫn còn không ít những kẻ đã không dám nói thật mà chỉ biết thốt ra những lời xu nịnh có lợi cho bản thân hay gia đình hoặc người thân của mình. Vâng, xã hội mà nói như người xưa thì “đời” là vậy, chỉ khi nào không còn người thích xu nịnh thì khi đó mới hết kẻ bợ đỡ.

N.N

  • Từ khóa
109581

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu