Thứ 7, 20/04/2024 09:18:43 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 08:37, 10/10/2016 GMT+7

Ba lần can vua

Thứ 2, 10/10/2016 | 08:37:00 1,647 lượt xem

BP - Trương Đỗ là người làng Phù Đới, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, nay là làng Phù Tải, xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan vào nửa sau thế kỷ XIV. Với tài năng của mình, ông được nhà vua giao giữ chức Ngự sử Đại phu, đứng đầu Ngự sử đài - cơ quan can gián vua. Về sau, ông còn được vua tin cậy giao kiêm nhiệm chức Đình úy tự khanh (đứng đầu cơ quan tra xét các hình án) và Trung đô phủ tổng quản (quản lý mọi mặt của kinh thành Thăng Long).

Quyền hành rất lớn nhưng Trương Đỗ vẫn luôn giữ vững lối sống cao đẹp. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn viết tóm tắt một số nét phẩm chất đạo đức của ông như sau: Trương Đỗ là người thanh liêm, thẳng thắn, không bè đảng, phóng khoáng, có chí lớn... Ông làm quan trong sạch, nghèo túng, không gây dựng điền sản, con cháu nối đời làm quan cũng có tiếng là nghèo mà trong sạch...


Minh họa: S.H

Tiếc rằng, ông ra làm quan đúng vào thời kỳ nhà Trần ngày càng suy yếu, kỷ cương lỏng lẻo, gian thần tiếm quyền, khắp nước liên tục xảy ra loạn lạc, đời sống của nhân dân điêu đứng. Đời vua Trần Dụ Tông, thầy Chu Văn An dâng “thất trảm sớ” đòi chém đầu 7 tên gian thần nhằm làm trong sạch đám cầm quyền, nhưng vua không nghe nên ông lui về núi Phượng Hoàng (Chí Linh) mở trường dạy học.

Đến đời Trần Duệ Tông, Ngự sử Đại phu Trương Đỗ cũng đã ba lần dâng “bãi chiến sớ” can nhà vua chớ gây cuộc binh đao với Chiêm Thành, nhưng không hiệu quả nên ông cũng từ quan. Còn vua Trần Duệ Tông đã phải trả giá cực đắt bằng chính mạng sống của mình cho thói ương ngạnh không chịu lắng nghe lời tôi hiền can gián. Vì cự tuyệt lời can tâm huyết của Trương Ngự sử, Trần Duệ Tông thân chinh đem 12 vạn quân sang đánh Chiêm Thành, quả nhiên sa vào bẫy phục kích của đối phương, đại quân tan vỡ trong một canh giờ, vua cùng nhiều tướng sĩ tử trận.

Trận thảm bại của đội quân Đại Việt vào ngày 24 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1377) có thể coi là đau đớn bậc nhất trong lịch sử Đại Việt. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn mô tả rằng, ngày hôm ấy, kinh thành Thăng Long ban ngày mà trời đất tối om, hàng chợ phải đốt đuốc lên để mua bán. Từ đó nhà Trần ngày càng thêm suy sụp, không gượng dậy nổi và đến năm 1400 thì nhà Hồ cướp ngôi. Vào năm 1407, đất nước rơi vào móng vuốt của quân Minh xâm lược. Nếu như Trần Duệ Tông biết nghe lời can của Ngự sử Đại phu Trương Đỗ thì thảm bại năm Đinh Tỵ đã không xảy ra và lịch sử nước nhà bớt được một trang đen tối.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm Bính Thìn (1376), vua Chiêm Thành đã gửi dâng cho vua Trần 10 mâm vàng nhưng viên quan tham ô là Đỗ Tử Bình biển thủ đi rồi trí trá tâu vua rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ và kích động vua đem quân sang hỏi tội. Vua Trần Duệ Tông nhẹ dạ cả tin và quyết tự mình mang quân đi đánh. Trương Đỗ xác định rõ đây là cuộc chiến tranh không đáng có, chỉ gây tai họa cho nhân dân hai nước nên dâng sớ can rằng: Chiêm Thành ở tận cõi Tây xa xôi, hẻo lánh, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ mới lên ngôi, đức chính, giáo hóa chưa thấm nhuần tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó phải tự đến thần phục. Sau này, nếu nó không theo, sẽ sai tướng đi đánh cũng không muộn gì.

Cốt lõi của tờ sớ là dùng ân đức nhân nghĩa để cảm hóa chứ không dùng bạo lực chiến tranh. Trong nước vừa dẹp xong loạn Dương Nhật Lễ, tình hình chưa ổn định, thế và lực còn yếu; mà phía Chiêm Thành lại đang khởi sắc với ông vua dũng cảm là Chế Bồng Nga, cho nên hòa bình là giải pháp duy nhất lúc ấy. Và điều đáng trân trọng ở ông là không những chỉ một lần, mà ông có tới ba lần dâng “bãi chiến sớ”.

Với ba lần dâng “bãi chiến sớ”, sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn về ông trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, như sau: Trương Đỗ nói không giấu lời, thế là xứng chức, nói đến ba lần thế là cố can; mà vua không nghe, thế là tâm trí của vua đã chê rồi. Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe thì đi, thế là sự tiến lui của Trương Đỗ hợp với lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng, thường trái tai vua mà lợi cho thân vua, nên lấy việc này làm gương.

Lời bàn:

Dưới thời phong kiến, vua là người nắm giữ quyền tối cao, cho nên nói trái ý vua là điều mà viên quan nào cũng hết sức tránh, nếu không muốn mất chức quyền, bổng lộc và chuốc họa vào thân. Thế nhưng, Ngự sử Đại phu Trương Đỗ đã ba lần dâng “bãi chiến sớ” trái ngược hẳn với quyết định của vua, thật là người chính trực và dũng cảm hơn hẳn các bạn đồng liêu. Không những thế, khi can gián nhà vua không được, ông đã từ quan để phản đối chiến tranh. Tinh thần vì nước, vì dân mà quên thân ấy của ông cho đến ngày nay dễ mấy ai sánh kịp.

Chỉ riêng với những lời viết về Trương Đỗ như nói ở trên cũng đã là quá đủ để người đời sau hiểu rõ về những đức tính cao quý của ông, mà những người nắm công quyền thời nào cũng cần noi theo. Song, điều đáng nói ở đây là người xưa lưu truyền lại giai thoại trên đây không phải là để cho hậu thế mua vui trong những lúc trà dư tửu hậu. Mà việc lưu truyền lại sự  kiện này trong sử sách như là một bài học trước hết về tai họa của nạn biển thủ công quỹ của quan lại cao cấp và sự thiếu sáng suốt của người đứng đầu một khi không biết lắng nghe lời ngay thẳng của các trung thần can ngăn.

N.D

  • Từ khóa
109845

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu